Interview Questions
from Lay-friends
Interview Questions
from Lay-friends
Interview Questions
from Lay-friends
Interview Questions
from Lay-friends
Tóm Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Từ Giáng Sanh đến Thành Đạo)
(Soạn Bài và Trình Bài Tại Tịnh Xá Ngọc Hòa 2011: Trọng Hiếu và Hạnh Ngọc)
Trích từ bài viết của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa:
Sách "Đức Phật và Phật Pháp"của Đại Đức Nàrada Mahàthera (Tích Lan-Sri Lanka) viết vào năm 1970;
Trích từ bài viết "Phật Giáo" được đăng trong Bách Khoa Toàn Thư (Wikipedia)
A. Mở Đề (Phần I):
Đời Đức Phật Thích Ca là Một Tấm Gương Sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước.
1. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Mỗi hành động, mổi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta.
2. Đời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói.
3. Đời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng chânlý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những ý không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói. Niết Bàn có thể đạt được ngay tại thế giới Ta Bà này.
4. Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng tạ.
II. Chánh Đề:
A. Sự đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
1. Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của Đức Phật Thích Ca trong cõi đời Ta Bà này, người ta thường dùng những chữ:
2. Đản sanh: nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạng cho cõi đời. Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời.
3. Thị hiện: nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được. Chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao giời cũng có cả nhưng, vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy
4. Giáng sanh: nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh ra Chữ giáng sanh hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần Ta Bà này.
5. Trái lại, khi một người phàm ra đời thì gọi là "đầu thai." Đầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ.
6. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.
B. Hoàn Cảnh và Dòng Dõi Của Đức Thích Ca
1. Đức Phật giáng sanh ở xứ trung Ấn Độ, thời thế kỷ thứ 6 trước Trung Nguyên 6th BC), bấy giờ là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã lạp Sơn, là một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất dẹp; đến mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương.
2. Cha của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Vua tri vì là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này.
3. Mẹ của Đức Phật là Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời.
4. Cả hai Ông Bà vua Tịnh Phạn đều là người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.
5. Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có lễ vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ muốn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vua ra lệnh mời các thầy đoán mông. Các nhà tiên tri đoán rằng:"Hoàng hậu sẽ sanh một quý tử tài đức song toàn." Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối.
6. Đền sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Trung Nguyên 624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, thì Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.
7. Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương.
8. Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử. Trong số đó, có đạo sĩ tên A Tư Đà tu ở núi Hy Mã Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh hay Vĩ Nhân cao quý của nhân loại. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái Tử là Sĩ Đạt Đa (Siddartha Gautama) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ được toại nguyện hay sẽ giữ chức vị cao quý của mình." Chức vị mà vua Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật.
9. Hoàng Hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về côi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng Hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng.
C. Tài Năng Và Đức Hạnh Của Thái Tử
1. Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng.
2. Nhưng, mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao sang quyền quý tột bậc. Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất hòa nhã ôn hòa, vô tư, bình đẳng. Lòng thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp, hễ có dịp giúp đỡ, thì dù khó khăn bao nhêu Ngài cũng không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quý, dưới thần dân kính trọng, nể vì.
D. Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn Vương Để Ngăn Chí Xuất Gia Của Thái Tử
1. Khi Thái Tử càng lớn khôn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt trầm tư của Thái Tử không vui tươi như thời thơ ấu.
2. Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thực hiện. Bởi thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế họach để ràng buộc Thái Tử ở lại ngôi báo. Ngài truyền xây dựng ba tòa lâu đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn từng trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái Tử.
3. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ, Ngài còn làm lễ thành hôn cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiên Giác là Da Du Đa La, một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô cùng.
4. Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất, và có một con là La Hầu La.
5. Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ, Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn và nhiều thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây, không phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội. Chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
6. Một hôm nhân ngày lễ Hạ Điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời quang đãng, gió xuân phơi phới Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc lắm.
7. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nỗi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và trong khu rừng gần đó, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sanh sống là khổ.
8. Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân.
9. Ra đến cửa Đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.
10. Đến cửa Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng.
11. Đến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.
12. Ba cảnh già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng.
13. Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị Tu Sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tỉnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái Tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến đối với vị Tu Sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa Môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời, để cầu cho mình khỏi khổ và thành chánh giác, để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình."
14. Lời giải đáp ấy đã đáp trúng với hoài bão mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài vui mừng khôn siết. Ngài liền trở về cung xin Vua Cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu cầu Vua Cha bốn (4) điều, nếu Vua giải quyết được, thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn diều này là:
a) Làm sao cho con trẻ mãi không già
b) Làm sao cho con mạnh mãi không đau
c) Làm sao cho con sống hoài không chết
d) Làm sao cho mọi người hết khổ
15. Bốn điều này làm cho Vua Cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả.
E. Sự Xuất Gia Tìm Đạo
1. Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong "cung vui." Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài.
2. Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một cuộc yến tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy, nhìn vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 29 tuổi.
3. Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, cởi bỏ xiêm-y, trả ngựa lại cho Xa Nặc, khoác áo y vàng, dùng 1 bát để trì bình qua ngày, Thái Tử bắt đầu đi vào rừng sâu tìm Đạo.
4. Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên tìm đi nơi khác để tu hành.
5. Ngài đi hết chổ này đến chổ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc Đạo thì Ngài tìm đến học; nhưng đến đâu thì Ngài thấy Đạo của họ vẫn còn hẹp hòi, thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết được.
6. Từ đấy, Ngài chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến Đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ, thân hình mỗi ngày mỗi tiều tụy Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã liệt trên cỏ, và được một người chăn cừu đến đổ sửa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó, Ngài nhận thấy nếu muốn có kết quả, cần phải bổ dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi được.
7. Khi thấy mình đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối cùng, với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và thề rằng: "nếu ta không thành Đạo, thì thịt nát sương tan, ta cũng quyết không rời chổ nạy."
F. Thành Đạo
1. Đức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Đề trong trạng thái vắng lặng và hoàn toàn tịch mịch. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn…và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
2. Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngô (Enlighten).
3. Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh," thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong tam giới.
4. Đến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn Minh," thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó.
5. Đến canh tư, Ngài chứng được quả "Lậu Tận Minh," rõ biết được nguồn gốc của khổ đau và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
6. Từ ngày ấy, Ngài được Đạo Vô Thượng, thành bậc "Chánh Đẳng Chánh Giác," hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày Thành Đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 35 tuổi.
7. Phật (Buddha) có nghĩa là Người đã đạt được sự Thức Tỉnh và Giác Ngộ Enlightenment).
G. Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Đạo Của Đức Phật
1. Đức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đã thắng được giặc Ma Vương lẫn giặc Dục Vọng. Đức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Hùng Đại Lực.
2. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải chỉ nhằm tình thương trong phạm vi hẹp hòi của gia đình: thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Đức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Từ Đại Bi.
3. Lại tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ tất cả các trói buộc của thế giới Ta Bà này: ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan trong 13 năm dài, các cung nữ đàn hay múa đẹp, các thức ăn mùi ngon vị lạ, không một phút giây nào hối tiếc, để sống một đời kham khổ, đạm bạc, một y một bát, đầy thiếu thốn, giữa rừng sâu nước độc, đầy gian nan và hiểm trở, để quyết tìm Đạo, không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài thật xứng đáng với danh hiệu là Đại Hỷ Đại Xả.
4. Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh phải suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn, mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Đại Hùng, Đại Lực; Đại Từ, Đại Bi; Đại Hỷ, Đại Xả.
III. Kết Luận A. Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng Lớn Và Mạnh Mẽ
1. Chúng ta đã được biết qua đời sống của Đức Phật từ khi sơ sanh cho đến Thành Đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa, trong nhiều phương diện quý báu khác nhau.
2. Một trong những động lực chính đã thúc đẩy Đức Phật đi tìm Đạo, bắt đầu từ tâm Bồ Đề (Đại Từ & Đại Bi) của Ngài, lòng thương xót tất cả các chúng sanh và mọi loài đang trầm luân sống trong sự đau khổ, bệnh lão và tử.
3. Hai trong những đặc điểm của chân lý Đức Phật là: Tham Thiền và Phục Vụ. Ba điều dạy đầu tiên của Đức Phật là: Không hành ác, hành thiện, thanh lọc Tâm (cleanse your heart). Do đó, điều quý báu nhất cho những người chúng ta là phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, nguyện vì đời, vì đồng bào, vì đồng loại và vì tất cả chúng sanh mà tu hành, chứ không phải là ích lợi riêng cho mỗi cá nhân chúng ta.
4. Tâm là địch thủ lợi hại nhất, và ba vũ khí chiến thắng nó là đi con đường Trung Đạo với Chánh Giới (Nghiệp, Ngữ và Mạng), Chánh Định (Niệm, Định và Tinh Tấn) và Chánh Tuệ (Kiến và Tư Duy) - (Bát Chánh Đạo).
5. Lời Di Huấn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là: Liên Tục và Kiên Trì Nỗ Lực. Chúng ta lại phải phát tâm dũng mạnh, tích cực trong sự tu hành: một khi vào đường Đạo, thì dù gặp nguy nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay gót. Chúng ta phải tập cho được cái đức kiên trì như Đức Phật khi ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ Đề.
6. Cây Bồ Đề (Bồ-Đề Đạo Tràng (BodhGaya)) biểu hiện cho sự "Giác Ngộ," trong sự thông hiểu Tứ Diệu Đế (Khổ Đế, Tập Khổ Đế, Diệt Khổ Đế và Đạo Đế- Kinh Chuyển Pháp Luân).
7. Chân lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một chân lý tối thượng để dẫn đến sự giác ngộ và tìm ra sự siêu thoát từ trong chính mình; để tìm ra con đường giải thoát khỏi vòng tục lụy trầm luân đầy phiền não và khổ đau (khổ, bệnh, lão và tử); để tiêu diệt mọi hình thức ái dục (Dục Lậu, Hữu Lậu và Vô Minh Lậu); để trở thành Đức Phật - Buddha; và để đạt được sự giải thoát, vô vi và an lạc thực sự (Niết Bàn - Nirvàna).
Còn Tiếp Tục…
Cầu mong quý vị thoát khỏi đau khổ và tất cả những nguyên nhân của đau
khổ, đạt được niềm vui và bình an.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.